Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.
Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.
Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.
Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.
Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.
Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.
Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.
Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.
Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.
Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.
Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.
Về tiểu sử: Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.
Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]
– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …
– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …
– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);
Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !
Xin Tri Ân Linh Mục Alexandre De Rhodes đã tạo ra chữ Quốc Ngữ Việt Nam « uống nước nhờ nguồn, ăn qủa nhớ kẻ trồng cậy » đối với linh mục Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo, một thiên tài và một người luôn dành trọn tình yêu cho dân tộc Việt Nam.
ĐÃ ĐẾN LÚC DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TRI ÂN LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODESSáng hôm nay, nghe bài hát «Thương ca Tiếng Việt » do ca sỹ người Mỹ và cô bé học trò của ông người Hàn Quốc hát và đem so sánh với công trình nghiên cứu 40 năm của GsTs Bùi Hiền thì tôi mới thấu hiểu được sự thâm thúy nhân văn, trong sáng của tiếng việt do linh mục Alexandre de Rhodes ban tăng cho dân tộc VN. Ngài qủa thật là một thiên tài, một món quà vô giá mà Thượng Đế ban cho đất nước VN chúng ta. Thế nhưng gần 400 năm nay, vì định kiến, hiềm khích mà dân tộc Việt Nam chưa có một lời trị ân xứng đáng đối với ngài. Thậm chí, nhiều người Việt Nam vẫn không biết từ đâu, nhờ ai mà VN có chữ Quốc ngữ, tiếng Việt.Tất nhiên tôi tôn trọng mọi công trinh nghiên cứu của các nhà khoa học và ở đây tôi cũng không có muốn nói về nội dung cải cách chữ viết thầy Bùi Hiền, tôi xin dành ít phút nói lên ý kiến cá nhân.Thứ nhất, chúng ta không nên tốn nhiều thời giờ, tốn công sức để nói về sự thay đổi, cải cách bảng mẫu tiếng viết của thầy Bùi Hiền nữa, cứ bỏ nó vào « thùng rác » là xong. Vì theo nhiều người thì đây là một thứ ngôn ngữ «dung tục, thiếu vẽ đẹp nhân văn của ngôn ngữ» và theo Gs Trần Định Sử thì đề xuất của thầy Bùi Hiền « có tính hủy hoại văn hoá » không nên phổ biến làm gì. Nếu chúng ta cứ tiếp tục thảo luận, sử dung cách viết «dung tục và hài hước » này trên facebook và các trang mang xã hội thi nó dễ bị trở thành thói quên khó thay đổi. CHÚNG TA SỚM BỎ NGAY SỰ QUAN TÂM NÀY, nếu không con thiệt hại hơn nữa.Thứ hai, đất nước VN còn nhiều thứ cấp bách để cải tiến và thay đổi : tư do dân chủ và nhân quyền ; bộ máy công quyền tham nhũng ; hệ thống tư pháp, lập pháp và hành pháp…để sớm hội nhập với sự phát triển của thế giới. Không thể để cho một nhóm lợi ích lãnh đạo làm thao túng cả đất nước theo lợi ích của họ, mà nói như tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang : « Không được xem đất nước, dân tộc này là mớ rau, mớ thịt được anh mua về bây giờ anh muốn băm, muốn chặt, muốn ăn, muốn uống thế nào cũng được ».Thứ ba, Chính quyền CS VN nên gạt bỏ những định kiến hiềm khích, trân trọng lắng nghe và công nhận những đóng góp to lớn của người công giáo yêu đất nước VN xưa và nay. Tượng trưng ở đây là linh mục Alexandre de Rhodes, ngài cải cách ra chữ quốc ngữ cho người Việt Nam sử dụng, không mang ý nghĩa vinh danh cá nhân hay mục đích chính trị mà là mang ý nghĩa phục vụ giá trị nhân văn, yêu thương, hạnh phúc cho người VN và khai sáng văn minh cho dân tộc Việt.Vậy, không có lý do gì mà người VN không dành một ngày trong năm để tri ân, nói lên lòng biết ơn, thể hiện truyền thông nhân văn của người VN : « uống nước nhờ nguồn, ăn qủa nhớ kẻ trồng cậy » đối với linh mục Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo, một thiên tài và một người luôn dành trọn tình yêu cho dân tộc Việt Nam.
Posted by Sơn Túi Đỏ on Friday, August 31, 2018
LS Đặng Đình Mạnh
12-3-2017
Nguồn @Đinh Hữu Thoại
- 19 Tu sĩ trở về từ Bệnh viện dã chiến điều trị Covid-19 Quận 7 số 1
- Thư gửi anh chị em giáo chức Công giáo nhân Ngày nhà giáo Việt Nam 20.11.2020
- Lạy Chúa, đủ rồi!
- Đức Thánh Cha tuyên thánh cho một tín hữu Dòng Ba Đa Minh bị mù vào thế kỷ XIV
- Khi nào không được cử hành Thánh Lễ Hôn Phối hay Bí Tích Hôn Phối
- Đọc báo cũ: Vĩnh biệt Hà Nội (Giáo hội Công giáo tại Hà Nội 1954)
- ĐTC Phanxicô gặp các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên Thái Lan
- 12 câu Kinh Thánh giữ bạn thư thái và bình an giữa đại dịch Covid-19